| 3. KHỬ TRÙNG NƯỚC
                Dùng thuốc sát trùng trong quá trình chuẩn bị cũng như quản lý chất lượng nước  để tôm phát triển tốt là cần thiết. Tuy nhiên, nếu dùng thuốc  không đúng cách sẽ ảnh hưởng xấu đến môi trường ao nuôi và sức khỏe tôm, thậm  chí làm tôm chết.  Nhiều người nuôi tôm cho rằng, chất lượng nước suy giảm là do có quá nhiều vi khuẩn, do đó họ dùng các chất diệt khuẩn để diệt vi khuẩn nhằm cải thiện chất lượng nước. Những loại thuốc diệt khuẩn thường dùng nhất là polyvinyl pyrrolydone iodine (PVP iodine, povidone iodine), Formalin, Alkyl Dimethyl Benzyl Ammonium                Chloride (Benzalkonium chloride, BZK, BKC, BAC, ADBAC). Ngoài ra, một số loại thuốc có tính ôxy hóa mạnh cũng được dùng để khử trùng, làm sạch ao. Tuy nhiên, các tài liệu khoa học trên thế giới đã chỉ ra rằng, nguyên nhân dẫn đến sự bùng phát của vi khuẩn có hại là sự tích tụ bùn đáy. Giải pháp tốt nhất để cải thiện chất lượng nước là giảm lượng thức ăn, hút bùn đáy, tăng cường ôxy để phân hủy bùn đáy, và tạo điều kiện cho vi khuẩn có lợi phát triển để chấn áp vi khuẩn có hại. Sát trùng nước chỉ nên tiến hành trước khi thả giống và ở ao lắng. Cần hạn chế sát trùng trong quá trình nuôi. Những điều cần lưu ý liên quan đến khử trùng nước. 
                  Sát trùng phải được tiến hành  3 - 5 ngày trước khi thả  giống   để hạn chế tối đa mầm bệnh  trong nước.  Cần nhanh  chóng gây màu nước, cấy vi sinh khi thuốc sát trùng hết (thường trước 48 giờ), và thả  giống.Từ khi thả  giống đến  45 ngày; tôm còn nhỏ, rất yếu, hệ miễn dịch kém,  và nhạy cảm với thuốc sát trùng, nhất là  lúc tôm bệnh. Ngoài ra tôm nhỏ ăn tảo là chính, mà thuốc sát trùng diệt tảo và  động vật phù du. Trong giai đoạn này, không nên dùng thuốc sát trùng. Sau 45 ngày đến khi thu hoạch, tôm có sức   chịu đựng cao hơn với thuốc sát trùng, nhưng  vẫn cần cẩn thận với các thuốc  sát trùng ngoại trừ saponin và thuốc tím ở nồng độ thấp. Chỉ nên sát trùng khi  xung quanh có dịch bệnh, nước ao tôm dơ bẩn hoặc gần thu hoạch.Người nuôi thường chỉ quan tâm tới  giá cả và hiệu lực thuốc sát trùng và diệt  tạp nhanh mà quên  mặt trái của chúng. Thuốc sát trùng mạnh diệt tảo, vi sinh vật, cả có lợi lẫn có hại. Tảo chết  tiêu thụ nhiều ôxy để phân hủy, pH trong ao  giảm, khí độc tăng làm tôm giảm ăn. Ngoài ra, tôm thường bỏ ăn ngay sau khi  đánh thuốc sát trùng do bị sốc hóa chất, hệ miễn dịch suy giảm và dễ nhiễm bệnh.  Do đó, thuốc sát trùng mạnh không phải là lựa chọn tối ưu trong quá trình nuôi tôm. Sau khi sát trùng nước thì vi khuẩn gây hại sẽ  nhanh chóng bùng phát trở lại. Vì thế, cần phải cấy vi sinh có lợi ngay sau 48  giờ để giúp các vi khuẩn có lợi tạo quần thể ưu thế trước, từ đó khống chế mật  độ vi khuẩn gây bệnh dưới mức nguy hiểm.                Nên dùng thuốc sát trùng có nguồn gốc thiên  nhiên khi ao đã có tôm.                Phải đánh đủ liều thuốc. Không đánh thiếu,  vì không có tác dụng mà còn làm cho vi khuẩn lờn thuốc.                 Chlorine Chlorine là chất khử khuẩn phù hợp nhất để chuẩn bị nước. Các loại thuốc chứa Chlorine  là nước Javen NaOCl, Chlorua vôi (CaOCl2), canxium hypoclorite (Ca(OCl)2), Chloramin B (sodium N-Chlorobenzenesulfon-amide), Chloramin T (sodium chloro-4-methylphenyl sulfonylazanide), Sodium dichloroiso -cyanurate (NaDCC), và Sodium trichloroiso -cyanurate (NaDCC).  Tuy nhiên, cần tránh dùng sản phẩm chứa Chloramin T. Chất này không được phép dùng trong thủy hải sản ở Mỹ và châu Âu, do nó ngấm vào máu, dịch, và ruột con nuôi; rồi nhanh chóng chuyển thành chất độc p-toluen sulphonamid (p TSA). Chlorine  được bán dưới dạng dung dịch nước hay dạng bột. Không nên mua thuốc dạng lỏng vì rất khó xác định nồng độ thực sự trong chế phẩm bằng cảm quan như màu sắc hay mùi, do đó nhiều nhà sản xuất trục lợi bằng cách pha nồng độ rất thấp. Hơn nữa, Chlorine   trong dung dịch sẽ bay dần   vào không khí, nên tác dụng giảm theo thời gian lưu trữ. Với dạng bột, cũng nên mua loại tinh khiết của các hãng uy tín như BASF. Hoạt tính của các thuốc chứa chlorine  được tính bằng phần trăm  Chlorine  trong mỗi chế phẩm. Hàm lượng Chlorine  của  nước Javen là 4 - 5 %, của CaOCl2 là 35-38%,  Chloramin B là 28 %,   NaDCC là 55 - 60 %. Để biết loại nào kinh tế hơn,  ta tính như sau:  Với thuốc dạng bột Giá Chlorine/kg = Giá thuốc/kg : % Chlorine × 100 Nếu các thuốc ở dạng nước thì tính như sau Giá Chlorine/kg = Giá thuốc/kg : % Chlorine : % thuốc × 10000  Ví dụ:  
                CaOCl2 chứa 30% chlorine, giá 40.000/kg: Giá Chlorine là 40.000 : 35 × 100 = 114.000/kg, Chloramine B chứa 28% chlorine, giá 120.000/kg: Giá Chlorine là 120.000 : 28 × 100 = 429.000/kg, NaDCC chứa 55% chlorine, giá 120.000/kg: Giá Chlorine là 120.000 : 55 × 100 = 218.000/kg. Thuốc nước  10 % Chloramine, giá 120.000 đ/l: Giá Chlorine     là 120.000 : 10  : 28× 10000 =  4.290.000 Như vậy, so với  Chloramine B,  Clorua rua vôi rẻ bằng 1/4,   tiết kiệm được 75% chi phí; còn  NaDCC thì tiết kiệm được nửa tiền, nghĩa là giảm 50 % chi phí. Nói chung,  clorua vôi  rẻ nhất, nhưng khó dùng vì nhiều khi không tan hết. NaDCC có % Chlorine  cao, nên khả năng khử trùng mạnh; tuy nhiên, Chlorine giảm rất nhanh, nên cần đánh 2 lần. Còn thuốc nước thì siêu đắt. Để đảm bảo diệt  mầm bệnh thì nồng độ Chlorine tự do  phải không dưới 3 mg/l. Cùng khối lượng thuốc, nhưng lượng Chlorine tự do phụ thuộc vào pH. pH càng cao thì Chlorine tự do càng ít, càng cần nhiều thuốc. Do vậy, không nên tăng độ kiềm và pH trước khi đánh Chlorine. Phần trăm Chlorine tự do trong Chlorine được cho trong bảng 
                
                  | pH | 6 | 6,5 | 7,0 | 7,5 | 8,0 | 8,5 | 9,0 |  
                  | % Chlorine tự do | 95 | 90 | 73 | 50 | 23 | 9 | 3 |  Lượng thuốc cần đánh (kg/ha) = 30 : % chlorine : % Cholrine tự do × 10000  + Nhu cầu Chlorine Ví dụ: pH = 7,5; Thuốc có hàm lượng Chlorine 60%. Lượng thuốc cần thiết = 30 : 60 : 50  × 10000 = 100 kg/ha + Nhu cầu Chlorine. Nhu cầu Chlorine là lượng Chlorine cần thiết để ôxy hóa các chất hữu cơ có trong nước, và tùy thuộc vào độ bẩn của nước.  Để xác định chính xác nhu cầu Chlorine thì cần gởi mẫu đi kiểm định. Nếu không có giá trị này thì cứ tạm cho Nhu cầu Chlorine là 100 kg/ha. Hàm lượng Chlorine công bố trên bao bì sản phẩm nhiều khi khác so với thực tế. Do đó, nên gởi mẫu kiểm định trước khi đánh để tính lượng thuốc  cho đúng. Khử trùng dụng cụ cần nhiều Chlorine hơn,  80 -100 ppm (80 – 100 kg/m3) Chlorine   hoạt động. Chlorine tồn dư độc đối với  tôm, cá và các loài thủy sinh.  Do đó, sau khi khử trùng phải chờ sạch Chlorine hoặc sục khí mạnh trong 3-5  ngày trước khi thả giống. Xác định  Chlorine dư bằng kit đo Chlorine. Có thể khử nhanh Chlorine  bằng Na2S2O3·5H2O (Hipo).  Để loại bỏ 1 mg/l Cl  cần  7 mg/l Hipô. Lượng Hipô được tính như sau Lượng hipo (kg/ha) = 70  × độ sâu × Nồng độ Chlorine dư (mg/l)  Lưu ý, không xử lý Chlorine trong quá trình nuôi, vì sẽ hại cho con nuôi. Sau vụ nuôi cũng không nên  xử lý  Chlorine ngay vì   nước ao rất giàu các chất   hữu cơ nên hiệu quả diệt khuẩn kém. Hãy chờ một thời gian, để các chất trong ao phân hủy bớt rồi mới xử lý Chlorine. % Chlorine  tự do càng cao khi pH càng thấp; do đó sáng sớm, khi pH trong ao thấp nhất, là thời điểm thích hợp nhất để tạt Chlorine. Dùng cây gỗ khuấy để hòa  tan  Chlorine  bột vào nước trong xô   rồi phun đều xuống ao. Chạy máy sục khí lúc phun để Chlorine phân tán đều trong ao lúc phun, nhưng ngừng lại sau đó, nếu không Chlorine sẽ mất vào không khí. Dùng Chlorine  diệt khuẩn có lợi là Chlorine  sẽ bị phân hủy trong môi trường thành chất vô hại, không ảnh hưởng đến môi trường sau này. Các chất trên cũng là các chất dùng để xử lý nước sinh hoạt trong các nhà máy nước. Iodine Iodine có tác dụng sát khuẩn, được dùng phổ biến  trong y tế, và trong thủy sản trước đây. Iôt là chất rất độc cho cá và môi trường,  khó phân hủy hơn Chlorine,  tác dụng mạnh với các chất hữu cơ. Iôt chủ yếu được  dùng ở dạng phức Pyrrolydone Iodine (Polyvidon Iodine, );  phức này giải phóng dần  iôt nên ít độc hơn chính Iodine. Polyvidon Iodine thường  dùng để sát khuẩn dụng cụ ở trại giống và nhà máy chế biến hơn là sát trùng nước ao nuôi.   Trong môi trường nước giàu hữu cơ như nước nuôi tôm cá và nước lợ thì tác dụng của iôt bị giảm mạnh. Việc dùng iôt sát trung trong lĩnh vực thủy hải sản đã bị hạn chế ở một số quốc gia. Formalin (Formol - dung dịch 37- 40% trong nước) Formalin được dùng để trị các ký sinh trùng và bệnh ngoài da của cá, nhất là cá nước ngọt với hàm lượng  25-50 ppm. Có thể dùng  để khử trùng nước với hàm lượng  10-15 ppm (10 - 15 kg Formal /1000 m3). Để khử trùng dụng cụ ở các trại giống thì cần nồng độ cao 200 ppm. Tuy nhiên, không nên dùng cho ao tôm.
 Alkyl Dimethyl                Benzyl Ammonium                Chloride (Benzalkonium chloride, BZK, BKC, BAC, ADBAC) Đây là  thuốc  diệt côn trùng, có tác dụng sát khuẩn,  nấm mốc và các loài phiêu sinh cực mạnh, có tác động  rất nhanh - gần như tức thời, và là chất cực độc với cá; nhà nông thường dùng để khử cá tạp, tiệt trùng, diệt tảo và   kích thích tôm lột vỏ. Theo tài liệu của  EPA Hoa kỳ, chất này rất bền, không bị phân hủy và  tích tụ dần trong đất, làm đất mất các vi khuẩn có lợi, gây hại về lâu dài. Dùng loại thuốc tổng hợp này thì tôm sẽ khó lột vỏ. Liều dùng diệt khuẩn:  1 - 5 kg/ 1000 m3 mới có tác dụng.  Bà con ta thường dùng BZK để hạn chế tảo. Tuy nhiên, nếu đánh thuốc này ở một góc ao hay dùng liều lượng thấp 0,1 - 0,5  g/m3 thì sẽ  không có tác dụng. Còn nếu dùng liều lượng quá lớn thì các loài thủy sinh sẽ chết và phân hủy,  ảnh hưởng xấu trực tiếp đến con nuôi. Lưu ý là Alkyl Dimethyl Benzyl Ammonium Chloride không phải là Chlorine nên không thể kiểm tra bằng các kit do nhanh Chlorine mà phải xác định bằng các phương pháp phân tích hiện đại  trong các phòng thí nghiệm. Glutaraldehyde (1,5 Pentanedial)  Glutaraldehyde là chất diệt khuẩn cực kỳ mạnh, nhưng cực kỳ độc cho động vật thủy sinh và người. Theo quy định mới nhất của châu Âu, Glutaraldehyde không được phép sử dụng làm chất diệt khuẩn trong nông nghiệp. Tuy nhiên ở các quốc gia châu Á, người ta vẫn dùng Glutaraldehyde riêng lẻ hay đi kèm với BKZ với mục đích hạ giá sản phẩm để thu nhiều lợi nhuận hơn.  Bà con ta không nên  sử dụng sản phẩm có chứa Glutaraldehyde. EDTA  (Disodium Ethylene Diamine Tetraacetate) EDTA  có công dụng 
  Giảm nồng độ các iôn kim loại nặng tự do có hại cho tôm.Giảm váng  phèn vàng, đảm bảo sự phát triển của tảo. Nồng độ   cho nước nuôi tôm ấu trùng là 10  mg/L, đánh trước khi thả giống.Kích thích lột vỏ, dùng với hàm lượng 1 – 5 mg/l.Sát trùng nếu dùng với hàm lượng 5 – 10 mg/l.  Bromine (C5H6O2N2Br2, DBDMH, 1, 3-dibromo-5, 5-dimethyl hydantoin) Là chất khử trùng, diệt khuẩn                trong môi trường nước, thường được dùng để sát trùng dụng cụ . Potassium Monopersulfate (2KHSO5.KHSO4.K2SO4) và Potassium Persulphate (K2S2O8) Đây là các chất ôxy hóa cực mạnh, nên được dùng để diệt khuẩn, nguyên sinh động vật, nấm có                trong nguồn nước ao lắng. Dùng để xử lý nước, dọn tẩy ao. Sodium carbonat peroxyhydrate (2Na2CO3·3H2O2) Chất này khi tan trong nước giải phóng  ôxy, được dùng làm chất khử khuẩn cũng như chất cung cấp oxy cho ao trong trường hợp cấp bách, thiếu ôxy, tôm nổi đầu. Tuy nhiên, quạt khí vẫn hiệu nghiệm hơn cả. Để tăng 1 mg/l ôxy thì cần 20 kg/1000 m3 tương đương với 300 kg/ha (nước sâu 1,5 m). 
  Trở về 4. THUỐC GIẢM TẢO               Các nhóm tảo có hại hàng đầu trong ao nuôi tôm cá là tảo lam (Cyanobacteria), tảo vàng (Prymnesium parvum) và nhóm tảo mắt Euglenoids. 
                Sản sinh độc tố giết chết tôm.Tảo chết làm cạn kiệt nguồn oxy hòa tan.Làm chết các loài tảo có lợi trong ao nuôi và trong chuỗi thức ăn. 
              Các loài tảo này xuất hiện do nước phú dưỡng, nghĩa là nước bẩn, nhiều chất thải và thức ăn thừa. Do vậy khi xuất hiện các loài tảo này thì cần phải dùng thuốc diệt tảo. KMnO4 - thuốc tím Thuốc tím với nồng độ 2 mg/l (ppm) có thể diệt được một số  bệnh do tảo. Tuy nhiên,  trong nước có  nhiều chất cũng tiêu thụ thuốc tím nên lượng thuốc tím thực sự cần thiết sẽ lớn hơn hai hay thậm chí nhiều lần. Lượng thuốc tím do các hóa chất trong ao tiêu thụ được gọi nôm na là nhu cầu thuốc tím. Nhu cầu thuốc tím là lượng thuốc tím cần thiết cho vào 1 lít mẫu nước  để sau 30 phút thì nước màu ánh hồng nhạt. Cộng nhu cầu thuốc tím với 2 mg/l ta sẽ được nồng độ thuốc tím cần thiết để khử trùng. Không nên dùng dư vì sẽ gây hại cho con nuôi sau này. Xác định nhu cầu thuốc tím bằng cách cân 100 gam thuốc tím, pha vào 10 lít nước sạch ta được dung dịch gốc 10.000 ppm. Lấy mấy chai PET trong, cho vào mỗi lọ 1Lít mẫu nước cần kiểm tra và dùng ống tiêm 1 ml lấy 0,1 - 0,2 - 0,3 - 0,4 ml...  thuốc tím cho vào lần lượt các chai, ta được nước với các nồng độ thuốc  1, 2, 3, 4 mg/l....  Lắc và chờ đến khi thấy lọ nào có ánh hồng nhạt thì lấy nồng độ trong lọ đó làm nhu cầu thuốc tím. Thuốc tím phát huy tác dụng ở pH thấp, do đó nên đánh vào sáng sớm khi pH thấp.               CuSO4.5H2O - Sunphát đồng Công dụng 
                Sát trùng, diệt ký sinh trùng ngoài da trên   cá: 40 - 50 mg/l tắm cho cá 20 - 30 phút.Khử trùng roi cho tôm: 2 mg/l .Hạn chế sự phát triển của tảo 0,05 - 0,1 mg/l ở độ kiềm dưới 50 mg/l. Nếu nước có độ kiềm lớn hơn thì cần dùng lượng lớn hơn. Tảo chết sẽ thối rữa rất nhanh làm nồng độ ôxy hòa tan giảm, nhưng sau đó tảo phục hồi lại rất nhanh.Diệt các loại giáp xác. Thông thường lượng sunphat đồng cần thiết để giết giáp xác bằng 1% độ kiềm. Các động vật thủy sinh rất nhạy cảm với sunphat đồng. Nếu độ kiềm dưới 20 mg/l, thì việc xử lý bằng muối đồng với hàm lượng 0,5 - 1,0 mg/l sẽ làm con nuôi chết hàng loạt. Không nên  xử lý bằng muối đồng nhiều lần vì  đồng  tích tụ trong bùn  và gây hại lâu dài cho tôm cá.              
               Trở về
 |